Thứ Sáu, 9 tháng 2, 2018

Giá trị pháp lý của văn bản công chứng

Trong các giao dịch đơn thuần giữa các bên về dân sự cũng như trong hoạt động kinh doanh, thương mại, do sự thiếu am hiểu luật pháp, thiếu thông tin về tình trạng pháp lý của các đối tượng giao dịch của một hoặc cả hai bên… sẽ khiến cho các giao dịch chứa đựng rất nhiều rủi ro, dẫn đến những hậu quả bất lợi, những tranh chấp xâm hại đến quyền lợi ích của các bên tham gia giao dịch và cũng đẩy gánh nặng về phía cơ quan chức năng trong việc giải quyết những hậu quả này.
Công chứng là một dịch vụ công ích quan trọng, một thể chế không thể thiếu được của Nhà nước pháp quyền để đảm bảo giá trị pháp lý, sự an toàn của các giao dịch nói trên. Các văn bản công chứng có giá trị xác thực, giá trị pháp lý và độ tin cậy hơn hẳn các loại giấy tờ không có chứng nhận xác thực hoặc chỉ trình bày bằng miệng. Các văn bản công chứng bảo đảm sự an toàn của các giao dịch, tạo nên sự yên tâm tin tưởng của khách hàng, hạn chế đến mức thấp nhất các tranh chấp xảy ra. Về phương diện Nhà nước cũng đảm bảo trật tự, kỷ cương, ổn định trong việc quản lý các giao dịch; từ đó cũng góp phần làm giảm đáng kể việc giải quyết tranh chấp luôn là gánh nặng của các cơ quan chức năng và giúp các cơ quan chức năng quản lý tốt hơn các hoạt động giao dịch. Vì vậy công chứng cũng mang tính dịch vụ công ích, phục vụ cho hoạt động quản lý của cơ quan Nhà nước.

Kết quả hình ảnh cho giá trị pháp lý của văn bản công chứng

Giá trị pháp lý của văn bản công chứng được quy định tại Điều 5 của luật công chứng năm 2014, theo đó, văn bản công chứng mang giá trị thi hành và giá trị chứng cứ:

1. Giá trị thi hành

Theo khoản 2 Điều 5 Luật công chứng 2014 thì: “Hợp đồng, giao dịch được công chứng có hiệu lực thi hành đối với các bên liên quan; trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên kia có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác”. Theo đó, nội dung đã được thỏa thuận trong văn bản công chứng sẽ có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với các bên tham gia hợp đồng, giao dịch đồng thời với cả bên thứ ba. Bởi khi một hợp đồng, giao dịch được công chứng thì nó sẽ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên như đã thỏa thuận trong nội dung của giao dịch, hợp đồng. Đồng nghĩa với việc một văn bản đã được công chứng có giá trị thi hành trên thực tế bởi sự tôn trọng và chấp hành những nội dung đã được thỏa thuận trong văn bản.
Ví dụ: khi một hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được các bên ký kết và công chứng thì các bên có liên quan như tổ chức hành nghề công chứng, cá nhân có liên quan cũng phải công nhận và làm các thủ tục cần thiết liên quan.
Bên cạnh đó, theo qui định tại khoản 4 Điều 5 Luật công chứng 2014 có quy định: “bản dịch được công chứng có giá trị sử dụng như giấy tờ, văn bản được dịch”. Như vậy, các bản dịch đã được công chứng tương đương với các văn bản, giấy tờ gốc được dịch. Khi các chủ thể đưa ra bản dịch được công chứng thì nó sẽ có giá trị tương đương với văn bản gốc được dịch và khi đó, các bản dịch được công chứng sẽ có hiệu lực đối với tất cả các chủ thể có liên quan, trừ trường hợp có vi phạm sảy ra trong quá trình công chứng như: có căn cứ cho rằng công chứng viên chưa kiểm tra tính chính xác của bản dịch mà đã công chứng, hay có sự câu kết giữa công chứng viên và người yêu cầu công chứng nhằm thực hiện cá hành vi vi phạm pháp luật,….
Như vậy, có thể thấy rằng văn bản công chứng không chỉ có hiệu lực thi hành đối với các bên tham gia mà còn có hiệu lực đối với bên thứ ba. Việc công chứng viên của tổ chức hành nghề công chứng tiến hành hoạt động công chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch buộc phải chịu trách nhiệm về tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch, bản dịch đó tức là chịu trách nhiệm cả về mặt nội dung và hình thức, cho nên một văn bản công chứng cũng có giả trị thi hành đối với bên thứ ba.
Xét trong mối quan hệ giữa các bên trong hợp đồng thì hiển nhiên là những gì họ đã cam kết trong hợp đồng, giao dịch thì họ có ngĩa vụ thực hiện, không được bội ước. Đó cũng là nguyên tắc trong luật dân sự, dó đó hiệu lực thi hành của văn bản công chứng không có gì mới trong pháp luật về công chứng. Nếu như trước đây tại một số văn bản quy định về công chứng quy định trong trường hợp một bên vi phạm nghĩa vụ thì bên còn lại có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành giải quyết. Nhưng việc luật quy định một cách chung chung không cụ thể khiến cho việc thi hành gặp nhiều khó khăn. Vậy cơ quan có thẩm quyền ở đây là cơ quan nào? Luật công chứng 2014 đã khắc phục được hạn chế đó và tại quy định tại Điều 5 đã chỉ rõ cơ quan có thẩm quyền giải quyết trong trường hợp bên còn lại vi phạm nghĩa vụ là Tòa án. Việc quy định như vậy sẽ góp phần giúp cho việc thi hành pháp luật trở nên dễ dàng thuận lợi và thống nhất hơn.

2. Giá trị chứng cứ

Căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 5 Luật công chứng năm 2014 thì Hợp đồng, giao dịch được công chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện trong hợp đồng, giao dịch được công chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu.
Trước hết, chứng cứ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành chứng cứ được hiểu là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án dùng làm căn cứ để xác định hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án.
Cùng với đó, tại khoản 10 Điều 95 Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015 cũng quy định: “Văn bản công chứng, chứng thực được coi là chứng cứ nếu việc công chứng, chứng thực được thực hiện theo đúng thủ tục do pháp luật quy định”. Tại khoản 1 Điều này cũng quy định rằng: “Tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận”.
Từ những quy định trên đã khẳng định rằng, văn bản công chứng có giả trị chứng cứ chứ không phải chứng minh. Cơ sở của quy định này xuất phát từ việc khẳng định vai trò chức năng của công chứng viên về chứng nhận tính xác thực của các hợp đồng, giao dịch cả về thời gian, địa điểm, hay nói cách khác là sự chứng nhận về mặt hình thức và chứng nhận cả về mặt nội dung của các hợp đồng, giao dịch và nội dung của các bản dịch.
Pháp luật đã quy định thủ tục tạo lập cũng như thông qua một văn bản công chứng khá chặt chẽ, phức tạp bao gồm một loạt các thủ tục tính từ khi Công chứng viên tiếp nhận ý chí của các bên giao kết hợp đồng, xác định tư cách chủ thể của các bên, kiểm tra năng lực hành vi dân sự của chủ thể, tính tự nguyện của các bên trong giao kết hợp đồng, xác định nguồn gốc hợp pháp của đối tượng hợp đồng, kiểm tra tính hợp pháp của hợp đồng,... Ngoài ra, văn bản công chứng được ghi lại dưới hình thức nhất định đồng thời cũng đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận nên rất rõ ràng. Văn bản công chứng được coi như là một phương tiện ghi nhận ý chí, sự thỏa thuận của các bên khi tham gia giao kết một hợp đồng, giao dịch cụ thể trên thực tế. Hơn nữa, bản thân công chứng viên được coi như một Thẩm phán phòng ngừa vì trước khi công chứng một hợp đồng, giao dịch nào đó đã phải xác minh, làm rõ các tình tiết, sự kiện có liên quan bằng các kiến thức cũng như kỹ năng nghề nghiệp của mình. Chẳng hạn, để công chứng một hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, Công chứng viên phải xác nhận sự tự nguyện của hai bên thông qua việc họ cùng có mặt tại Phòng Công chứng hoặc văn phòng công chứng vào thời điểm ký kết, xác minh rõ nguồn gốc của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là đối tượng của hợp đồng,...
Tuy nhiên, trên thực tế có những tình tiết, sự kiện phát sinh khiến cho một số văn bản công chứng mặc dù đã được công chứng nhưng sau đó mới phát hiện ra sự sai sót có thể là xuất phát từ công chứng viên hoặc có sự giả mạo, gian dối đối với những giấy tờ, tài liệu trước đó hoặc việc công chứng không phù hợp với quy định của pháp luật thì Tòa án có thể tuyên bố văn bản công chứng là vô hiệu. Chẳng hạn sau khi công chứng di chúc mới phát hiện tại thời điểm lập di chúc, người lập di chúc không còn minh mẫn nữa hay chữ ký trong di chúc là giả mạo, ... Khi đó, giá trị chứng cứ của văn bản công chứng sẽ không còn, đồng thời cũng không có giá trị thực hiện, không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng, giao dịch.
Một văn bản công chứng chỉ bị tuyên là vô hiệu khi hoạt động công chứng là trái pháp luật. Các văn bản công chứng có giá trị xác thực, giá trị pháp lý và độ tin cậy hơn hẳn các loại giấy tờ không có xác nhận xác thực hoặc chỉ trinh bày bằng miệng. Các văn bản công chứng bảo đảm sự an toàn của các giao dịch, tạo nên sự tin tưởng của khách hàng, hạn chế mức thâp nhất các tranh chấp có thể xảy ra. Về phương diện Nhà nước cũng đảm bảo trật tự, kỷ cương ổn định trong việc quản lý các giao dịch, từ đó góp phần làm giảm đáng kể việc giải quyết tranh chấp luôn là gánh nặng của cơ quan chức năng và giúp các cơ quan quản lý tốt hơn trong các hoạt động giao dịch.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét