Thứ Tư, 21 tháng 2, 2018

Đặc điểm của pháp luật Cộng đồng ASEAN mang bản chất của luật Quốc tế

Cộng đồng ASEAN là liên kết giữa các quốc gia- chủ thể của luật quốc tế trên cơ sở một hệ thống pháp lý và thể chế pháp lý, dó đó mà pháp luật Cộng đồng ASEAN cũng có những đặc điểm mang đầy đủ bản chất của luật quốc tế. Trong bài viết này, mình xin cung cấp thêm thông tin để làm rõ vấn đề này.

Kết quả hình ảnh cho pháp luật cộng đồng asean
Có thể thấy rằng pháp luật cộng đồng ASEAN mang bản chất luật quốc tế được thể hiện thông qua 4 đặc điểm sau:

Thứ nhất, quan hệ do pháp luật Cộng đồng ASEAN điều chỉnh
Quan hệ do pháp luật Cộng đồng ASEAN điều chỉnh chủ yếu là quan hệ phát sinh giữa các quốc gia trong Cộng đồng ASEAN. Ngoài ra, pháp luật Cộng đồng ASEAN còn điều chỉnh quan hệ hợp tác trong một số lĩnh vực giữa ASEAN với các đối tác ngoài ASEAN, điển hình là quan hệ giữa các quốc gia như Hoa Kỳ, Nga, Hàn Quốc, Trung Quốc… tham gia Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), quan hệ giữa các quốc gia thành viên hiệp ước thân thiện và thỏa ước Đông Nam Á…Quan hệ pháp luật Cộng đồng ASEAN phát sinh trong tất cả các lĩnh vực hợp tác kinh tế, chính trị-an ninh và văn hóa- xã hội.
Như vậy, quan hệ do pháp luật Cộng đồng ASEAN điều chỉnh cũng là quan hệ giữa các quốc gia trong cộng đồng ASEAN và giữa ASEAN với các đối tác ngoài ASEAN, điều này giống với quan hệ do Luật quốc tế điều chỉnh, nhưng chỉ có điều do chủ thể của luật quốc tế rộng hơn nên quan hệ do luật Quốc tế điều chỉnh cũng rộng hơn pháp luật Cộng đồng ASEAN. Điều này cũng dễ hiểu bởi ASEAN chỉ là một chủ thể của luật Quốc tế còn Luật Quốc tế điều chỉnh quan hệ pháp luật phát sinh giữa các chủ thể, phạm vi điều chỉnh của pháp luật rộng hơn và phức tạp hơn.

Thứ hai, xây dựng pháp luật cộng đồng ASEAN.
Pháp luật Cộng đồng ASEAN do ASEAN xây dựng và ban hành. Theo quy định của Điều 20 Hiến chương ASEAN, việc ban hành và ra quyết định của Cộng đồng ASEAN dựa trên cơ sở tham vấn và đồng thuận. Các quyết định và văn bản pháp lý của ASEAN chỉ được xây dựng hoặc ban hành dựa trên cơ sở đồng thuận của tất cả các thành viên, điều này thể hiện các quốc gia này đều có độc lập chủ quyền và địa vị hoàn toàn bình đẳng khi tham gia vào các quan hệ do pháp luật Cộng đồng ASEAN điều chỉnh. Sự thỏa thuận giữa các quốc gia để xây dựng nên quy phạm pháp luật trong ASEAN cũng giống với cơ chế khi đưa ra các quy phạm pháp luật trong luật quốc tế. Tuy nhiên, luật Quốc tế được các chủ thể xây dựng nên bằng hai phương pháp là thỏa thuận thông qua kí kết điều ước quốc tế hoặc thỏa thuận ngầm định qua việc các chủ thể thừa nhận những quy tắc xử xự chung hình thành trong thực tiễn sinh hoạt quốc tế là những quy phạm quốc tế có tính bắt buộc chung, còn pháp luật cộng đồng ASEAN xây dựng pháp luật trên cơ sở tha vấn và đồng thuận, các quyết định chỉ được thông qua khi có sự đồng thuận của tất cả các thành viên.
Với đường lối đối ngoại đã được khẳng định trong Hiến chương ASEAN: “ASEAN sẽ phát triển quan hệ hữu nghị và đối thoại, hợp tác và đối tác cùng có lợi với các quốc gia, tổ chức, thể chế tiểu khu vực, khu vực và quốc tế” (Điều 41 Hiến chương ASEAN). Pháp luật điều chỉnh quan hệ đối ngoại của ASEAN chính là pháp luật quốc tế. Vì vậy, các nguyên tắc, quy phạm điều chỉnh quan hệ đối ngoại của ASEAN cũng phản ánh đặc trưng về trình tự xây dựng luật của quốc tế, đó là sự thỏa thuận trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng – con đường duy nhất dẫn đến sự ra đời của các nguyên tắc, quy phạm.

Thứ ba, thực thi pháp luật Cộng đồng ASEAN
Phụ thuộc vào nội dung hợp tác và phạm vi hợp tác, thực thi pháp luật Cộng đồng ASEAN là nghĩa vụ của các bên có liên quan, được thực hiện thông qua các quốc gia thành viên, các thiết chế cộng đồng và đối tác của ASEAN. Pháp luật cộng đồng ASEAN có cơ chế thực thi thông qua hoạt động của các quốc gia thành viên và các thiết chế khác. Các quốc gia thực thi bằng cách nội luật hóa , ban hành các văn bản quy phạm trong nước phù hợp với các Điều ước, hiến chương trong hệ thống pháp luật của ASEAN. Cơ chế thực thi của pháp luật cộng đồng ASEAN và luật quốc tế có khá nhiều điểm giống nhau, thể hiện ở chỗ chỗ cơ chế thực thi thông qua hoạt động của các quốc gia thành viên.

Thứ tư, giám sát thực thi pháp luật và giải quyết tranh chấp

Chức năng giám sát thực thi pháp luật của Cộng đồng ASEAN được quy định cho tất cả các thiết chế của Cộng đồng, từ hội nghị cấp cao đến ban thư kí của ASEAN. Tuy nhiên, cơ chế này không được quy định thống nhất trong một văn bản mà được quy định ở hầu hết các văn bản pháp lý của ASEAN. Về cơ chế giải quyết tranh chấp, cho đến nay ASEAN đã xây dựng được hệ thống quy định pháp luật tương đối hoàn chỉnh và hiện đại về giải quyết tranh chấp của ASEAN. Đối với luật quốc tế, chức năng giám sát thực thi chủ yếu là do các chủ thể thực hiện. Cơ chế giải quyết tranh chấp trên cơ sở thỏa thuận của các chủ thể và được quy định cụ thể trong các Điều ước quốc tế. Như vậy có thể thấy được rằng giám sát thực thi và giải quyết tranh chấp của ASEAN giống với luật Quốc tế ở chỗ chức năng giám sát thực thi chủ yếu là do các chủ thể thực hiện và đều xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp trên cơ sở thỏa thuận của các chủ thể và quy định cụ thể trong các Điều ước quốc tế. Tuy nhiên vì luật Quốc tế có đối tượng điều chỉnh rộng và phức tạp nên không có một bộ máy cưỡng chế chung để đảm bảo thi hành như ASEAN.

1 nhận xét: