Thứ Tư, 31 tháng 1, 2018

Thuế thu nhập doanh nghiệp có những đặc trưng gì?

Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) là loại thuế trực thu đánh vào phần thu nhập của tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có thu nhập chịu thế sau khi đã trừ đi các chi phí liên quan đến thu nhập đó, nhằm đảm bảo sự đóng góp công bằng, hợp lý giữa các doanh nghiệp, tổ chức sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có thu nhập góp phần thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển và tăng thu cho NSNN.
Kết quả hình ảnh cho thuế thu nhập doanh nghiệp

 Thuế thu nhập doanh nghiệp có các đặc trưng sau:

Bên cạnh các đặc điểm chung của thuế như: là khoản thu nộp bắt buộc vào ngân sách, gắn với yếu tố quyền lực, có tính cưỡng chế và pháp lý cao, không mang tính đối giá, không hoàn trả trực tiếp, thuế TNDN còn có một số đặc điểm riêng tạo nên đặc trưng của thuế TNDN, cụ thể như sau:

Thứ nhất, chủ thể nộp thuế là là các tổ chức kinh doanh có thu nhập chịu thuế.
Đây là đặc điểm khác biệt để phân biệt thuế TNDN với thuế TNCN. Luật thuế thu nhập cá nhân có đối tượng nộp thuế là tất cả các cá nhân trong xã hội khi đáp ứng các điều kiện mà luật thuế thu nhập cá nhân quy định – đó là toàn bộ những người có thu nhập bao gồm tất cả cá nhân cư trú hoặc không cư trú có thu nhập theo mức độ quy định của pháp luật thuế thu nhập cá nhân.
Chủ thể nộp thuế TNDN là các tổ chức sản xuất, kinh doanh hàng hóa dịch vụ có thu nhập chịu thuế phát sinh theo quy định của pháp luật thuế TNDN. Do đó về nguyên tắc thì bất kỳ tổ chức nào khi thỏa mãn hành vi kinh doanh và có thu nhập phát sinh thì đều là đối tượng nộp thuế TNDN. Tuy nhiên, để thực hiện chính sách khuyến khích đã ngộ với một số đối tượng hoạt động trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, một số lĩnh vực sản xuất kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn và thường tạo ra thu nhập không cao, luật thuế TNDN có quy định các trường hợp ngoại lệ.

Thứ hai, thuế TNDN có đối tượng điều chỉnh là thuế đánh vào thu nhập, cụ thể là khoản thu nhập chịu thuế của các tổ chức hoạt động, sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ và thu nhập khác của đối tượng nộp thuế kể cả thu nhập có được từ hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ ở nước ngoài. Thu nhập ở đây phải là thu nhập chịu thuế theo quy định pháp luật thuế TNDN. Tức là khoản thu nhập thực tế đã phát sinh trong kỳ tính thuế từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc sở hữu của tổ chức sản xuất kinh doanh. Theo đó, thu nhập trong kỳ tính thuế được tính tổng các giá trị lợi ích mà tổ chức kinh doanh thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh thông thường của doanh nghiệp góp phần làm tăng vốn doanh thu trừ đi các chi phí hợp lý trong kỳ tính thuế; cộng các khoản thu góp phần làm tăng vốn doanh thu từ các hoạt động ngoài các hoạt động tạo ra doanh thu như: chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng bất động sản; thu nhập từ quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản; thu nhập từ cho thuê, chuyển nhượng, thanh lí tài sản;…
Như vậy, mức vận động của NSNN đối với loại thuế này phụ thuộc phần lớn vào hiệu quả kinh doanh cũng như quy mô lợi nhuận của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào có thu nhập chịu thuế càng cao sẽ phải nộp thuế càng nhiều và ngược lại, các doanh nghiệp nào có thu nhập chịu thuế thấp hoặc gặp khó khăn về tài chính sẽ chỉ phải nộp thuế ít, thậm chí được giảm, miễn thuế.

Thứ ba, thuế TNDN là loại thuế trực thu, tức là người nộp thuế đồng thời cũng là người chịu thuế, không có sự chuyển giao nghĩa vụ từ người nộp thuế sang người chịu thuế. Ngoài mục tiêu tạo nguồn thu cho NSNN, nó còn có mục tiêu điều tiết kinh tế, điều hòa thu nhập xã hội nên thường gắn liền với chính sách kinh tế xã hội của nhà nước. Bởi vậy, pháp luật thuế thu nhập ở các nước thường có những quy định về chế độ ưu đãi, miễn, giảm thuế để đảm bảo chức năng khuyến khích của thuế thu nhập hoặc thực hiện việc áp dụng đánh thuế theo biểu thuế lũy tiến từng phần đối với một số khoản thu nhập chịu thuế để thực hiện các mục tiêu điều tiết.

Thứ tư, thuế TNDN nói riêng và thuế thu nhập nói chung là loại thuế phức tạp. Có tính ổn định không cao, việc quản lý thuế, thu thuế tương đối khó khăn, chi phí quản lý thường lớn hơn so với các loại thuế khác. Trong phần xác định thu nhập chịu thuế, phải xác định được các khoản khấu trừ hợp lý để tiến hành khấu trừ khi tính thuế nhằm đảm bảo mục tiêu công bằng và khuyến khích đối tượng nộp thuế.
Thuế TNDN đánh trực tiếp vào thu nhập của tổ chức sản xuất, kinh doanh, và làm giảm ngay số thu nhập có được của doanh nghiệp nên loại thuế này gây cảm giác mất mát cho người nộp thuế, và vì vậy, dễ gây phản ứng từ đối tượng nộp thuế, dẫn đến tình trạng trốn thuế. Mặt khác, khi tính thuế TNDN, việc xác định các khoản thu nhập chịu thuế, nguồn gốc khoản thu, địa điểm phát sinh thu nhập, yếu tố cư trú của tổ chức, các khoản chi phí hợp lý và không hợp lý mà việc khấu trừ rất phức tạp, rất khó kiểm soát. Vì vậy, cơ quan quản lý thuế phải đầu tư rất nhiều cả về tài lực, vật lực và nhân lực cho công tác quản lý lĩnh vực thuế này. Việc quản lý rất khó khăn, đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ thuế đông đảo và có trình độ chuyên môn, quản lý kinh tế cao, kèm theo việc áp dụng các phương tiện quản lý có kỹ thuật hiện đại với một hệ thống pháp luật đầy đủ, khả thi.
Nếu so với các loại thuế gián thu, thì thuế TNDN với tính chất là một loại thuế trực thu có phần thiếu ổn định hơn. Thật vậy, các loại thuế gián thu đánh vào tiêu dùng, nên ngay cả khi nền kinh tế đi xuống, hoạt động mua sắm, chi tiêu vẫn diễn ra, do vậy nhà nước vẫn thu được thuế mà tổng số thu không giảm sút đáng kể. Trong khi đó, thuế TNDN đánh vào thu nhập nên thường bị biến động. Nếu kinh tế phát triển tốt, thu nhập sẽ khá hơn và từ đó thuế thu được sẽ tăng. Nhưng ngược lại, sự suy giảm của nền kinh tế có thể làm giảm số lượng thu nhập nên số thuế thu ược có thể giảm đi rõ rệt.

Thứ năm, quan hệ thu – nộp thuế TNDN chịu sự điều chỉnh của pháp luật quốc gia và luật quốc tế. Thuế TNDN thường là đối tượng điều chỉnh bởi hiệp định tránh đánh thuế hai lần. Một số nước có ưu đãi thuế bằng cách miễn giảm thuế đối với một số thu nhập để khuyến khích đầu tư nước ngoài trong việc phát triển kinh tế. Tuy nhiên, việc chuyển lợi nhuận từ một nước, nơi phát sinh thu nhập về nước nơi người nộp thuế thuộc đối tượng cư trú đã loại trừ các lợi ích của việc ưu đãi thuế, có nghĩa là số thuế được miễn giảm ở nước phát sinh thu nhập đã bị thu nhập đã bị thu đầy đủ ở nước nơi người nộp thuế thuộc đối tượng cư trú. Điều này làm nản lòng các nhà đầu tư ở một nước mà đã cố gắng có chính sách khuyến khích thông qua pháp luật. Do đó, việc kí kết các hiệp định tránh đánh thuế hai lần giữa các quốc gia là điều vô cùng cần thiết.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét