Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) là loại thuế
trực thu đánh vào phần thu nhập của tổ chức hoạt động sản xuất,
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có thu nhập chịu thế sau khi đã trừ đi
các chi phí liên quan đến thu nhập đó, nhằm đảm bảo sự đóng góp công
bằng, hợp lý giữa các doanh nghiệp, tổ chức sản xuất kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ có thu nhập góp phần thúc đẩy sản xuất, kinh doanh
phát triển và tăng thu cho NSNN.
Thuế thu nhập doanh nghiệp có các đặc trưng sau:
Bên cạnh các đặc điểm
chung của thuế như: là khoản thu nộp bắt buộc vào ngân sách, gắn với
yếu tố quyền lực, có tính cưỡng chế và pháp lý cao, không mang tính
đối giá, không hoàn trả trực tiếp, thuế TNDN còn có một số đặc điểm
riêng tạo nên đặc trưng của thuế TNDN, cụ thể như sau:
Thứ
nhất, chủ thể nộp thuế là là các tổ chức kinh
doanh có thu nhập chịu thuế.
Đây là đặc điểm khác
biệt để phân biệt thuế TNDN với thuế TNCN. Luật thuế thu nhập cá nhân
có đối tượng nộp thuế là tất cả các cá nhân trong xã hội khi đáp
ứng các điều kiện mà luật thuế thu nhập cá nhân quy định – đó là
toàn bộ những người có thu nhập bao gồm tất cả cá nhân cư trú hoặc
không cư trú có thu nhập theo mức độ quy định của pháp luật thuế thu
nhập cá nhân.
Chủ thể nộp thuế TNDN
là các tổ chức sản xuất, kinh doanh hàng hóa dịch vụ có thu nhập
chịu thuế phát sinh theo quy định của pháp luật thuế TNDN. Do đó về
nguyên tắc thì bất kỳ tổ chức nào khi thỏa mãn hành vi kinh doanh và
có thu nhập phát sinh thì đều là đối tượng nộp thuế TNDN. Tuy nhiên,
để thực hiện chính sách khuyến khích đã ngộ với một số đối tượng
hoạt động trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, một số lĩnh vực sản
xuất kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn và thường tạo ra thu nhập không
cao, luật thuế TNDN có quy định các trường hợp ngoại lệ.
Thứ
hai,
thuế TNDN có đối tượng điều chỉnh là thuế đánh vào thu nhập, cụ
thể là khoản thu nhập chịu thuế của các tổ chức hoạt động, sản
xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ và thu nhập khác của đối tượng
nộp thuế kể cả thu nhập có được từ hoạt động sản xuất kinh doanh,
dịch vụ ở nước ngoài. Thu nhập ở đây phải là thu nhập chịu thuế
theo quy định pháp luật thuế TNDN. Tức là khoản thu nhập thực tế đã
phát sinh trong kỳ tính thuế từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ thuộc sở hữu của tổ chức sản xuất kinh doanh. Theo đó,
thu nhập trong kỳ tính thuế được tính tổng các giá trị lợi ích mà
tổ chức kinh doanh thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh thông
thường của doanh nghiệp góp phần làm tăng vốn doanh thu trừ đi các chi
phí hợp lý trong kỳ tính thuế; cộng các khoản thu góp phần làm tăng
vốn doanh thu từ các hoạt động ngoài các hoạt động tạo ra doanh thu
như: chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng bất động sản; thu nhập từ
quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản; thu nhập từ cho thuê, chuyển
nhượng, thanh lí tài sản;…
Như vậy, mức vận động
của NSNN đối với loại thuế này phụ thuộc phần lớn vào hiệu quả
kinh doanh cũng như quy mô lợi nhuận của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào
có thu nhập chịu thuế càng cao sẽ phải nộp thuế càng nhiều và
ngược lại, các doanh nghiệp nào có thu nhập chịu thuế thấp hoặc gặp
khó khăn về tài chính sẽ chỉ phải nộp thuế ít, thậm chí được
giảm, miễn thuế.
Thứ
ba, thuế
TNDN là loại thuế trực thu, tức là người nộp thuế đồng thời cũng
là người chịu thuế, không có sự chuyển giao nghĩa vụ từ người nộp
thuế sang người chịu thuế. Ngoài mục tiêu tạo nguồn thu cho NSNN, nó
còn có mục tiêu điều tiết kinh tế, điều hòa thu nhập xã hội nên
thường gắn liền với chính sách kinh tế xã hội của nhà nước. Bởi
vậy, pháp luật thuế thu nhập ở các nước thường có những quy định
về chế độ ưu đãi, miễn, giảm thuế để đảm bảo chức năng khuyến
khích của thuế thu nhập hoặc thực hiện việc áp dụng đánh thuế theo
biểu thuế lũy tiến từng phần đối với một số khoản thu nhập chịu
thuế để thực hiện các mục tiêu điều tiết.
Thứ
tư,
thuế TNDN nói riêng và thuế thu nhập nói chung là loại thuế phức
tạp. Có tính ổn định không cao, việc quản lý thuế, thu thuế tương
đối khó khăn, chi phí quản lý thường lớn hơn so với các loại thuế
khác. Trong phần xác định thu nhập chịu thuế, phải xác định được
các khoản khấu trừ hợp lý để tiến hành khấu trừ khi tính thuế
nhằm đảm bảo mục tiêu công bằng và khuyến khích đối tượng nộp thuế.
Thuế TNDN đánh trực
tiếp vào thu nhập của tổ chức sản xuất, kinh doanh, và làm giảm ngay
số thu nhập có được của doanh nghiệp nên loại thuế này gây cảm giác
mất mát cho người nộp thuế, và vì vậy, dễ gây phản ứng từ đối
tượng nộp thuế, dẫn đến tình trạng trốn thuế. Mặt khác, khi tính
thuế TNDN, việc xác định các khoản thu nhập chịu thuế, nguồn gốc
khoản thu, địa điểm phát sinh thu nhập, yếu tố cư trú của tổ chức,
các khoản chi phí hợp lý và không hợp lý mà việc khấu trừ rất
phức tạp, rất khó kiểm soát. Vì vậy, cơ quan quản lý thuế phải đầu
tư rất nhiều cả về tài lực, vật lực và nhân lực cho công tác quản
lý lĩnh vực thuế này. Việc quản lý rất khó khăn, đòi hỏi phải có
đội ngũ cán bộ thuế đông đảo và có trình độ chuyên môn, quản lý
kinh tế cao, kèm theo việc áp dụng các phương tiện quản lý có kỹ
thuật hiện đại với một hệ thống pháp luật đầy đủ, khả thi.
Nếu so với các loại
thuế gián thu, thì thuế TNDN với tính chất là một loại thuế trực
thu có phần thiếu ổn định hơn. Thật vậy, các loại thuế gián thu
đánh vào tiêu dùng, nên ngay cả khi nền kinh tế đi xuống, hoạt động mua
sắm, chi tiêu vẫn diễn ra, do vậy nhà nước vẫn thu được thuế mà tổng
số thu không giảm sút đáng kể. Trong khi đó, thuế TNDN đánh vào thu
nhập nên thường bị biến động. Nếu kinh tế phát triển tốt, thu nhập
sẽ khá hơn và từ đó thuế thu được sẽ tăng. Nhưng ngược lại, sự suy
giảm của nền kinh tế có thể làm giảm số lượng thu nhập nên số thuế
thu ược có thể giảm đi rõ rệt.
Thứ
năm,
quan hệ thu – nộp thuế TNDN chịu sự điều chỉnh của pháp luật quốc
gia và luật quốc tế. Thuế TNDN thường là đối tượng điều chỉnh bởi
hiệp định tránh đánh thuế hai lần. Một số nước có ưu đãi thuế bằng
cách miễn giảm thuế đối với một số thu nhập để khuyến khích đầu tư
nước ngoài trong việc phát triển kinh tế. Tuy nhiên, việc chuyển lợi
nhuận từ một nước, nơi phát sinh thu nhập về nước nơi người nộp thuế
thuộc đối tượng cư trú đã loại trừ các lợi ích của việc ưu đãi
thuế, có nghĩa là số thuế được miễn giảm ở nước phát sinh thu nhập
đã bị thu nhập đã bị thu đầy đủ ở nước nơi người nộp thuế thuộc
đối tượng cư trú. Điều này làm nản lòng các nhà đầu tư ở một nước
mà đã cố gắng có chính sách khuyến khích thông qua pháp luật. Do đó,
việc kí kết các hiệp định tránh đánh thuế hai lần giữa các quốc
gia là điều vô cùng cần thiết.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét