Trước hết, ta phải hiểu
thu nhập là khoản của cải thường được tính thành tiền mà một cá nhân, doanh
nghiệp hoặc một nền kinh tế nhận được trong một khoảng thời gian nhất định từ
công việc, dịch vụ hoặc hoạt động nào đó.
Đối với doanh nghiệp, mỗi
nguồn thu nhập dù đều là thu nhập nhưng có nội dung, vị trí, ý nghĩa khác nhau
đối với doanh nghiệp.
Thu nhập từ kinh doanh của
doanh nghiệp là tổng giá trị các lợi ích kinh tế mà cơ sở kinh doanh thu được
phát sinh từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh thông thường của doanh nghiệp
sau khi đã trừ đi chi phí sản xuất. Các hoạt động kinh doanh này nằm trong
danh mục đăng kí kinh doanh của doanh nghiệp còn các hoạt động của doanh
nghiệp để tạo ra thu nhập khác thì không nằm trong danh mục đăng kí kinh
doanh của doanh nghiệp.
Thu nhập khác của doanh
nghiệp là khoản thu góp phần làm tăng vốn của chủ sở hữu từ các hoạt động ngoài
hoạt động được tạo ra từ doanh thu. Các khoản thu nhập khác không nằm trong
danh mục đăng kí kinh doanh của doanh nghiệp, gồm các thu nhập được quy định tại
khoản 2 Điều 3 Luật thuế TNDN năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014.
Qua đó, ta thấy được pháp
luật thuế TNDN phân biệt việc đánh thuế thu nhập từ kinh doanh với thu nhập
khác vì các lí do sau đây:
Thứ
nhất,
xét về mặt lí thuyết, thu nhập từ kinh doanh được tính bằng doanh thu
trừ chi phí sản xuất, nên việc xác định thu nhập từ kinh doanh là
rất dễ dàng, còn các khoản thu nhập khác phát sinh lúc nào thì rất
khó để xác đinh, bởi chúng không nằm trong danh mục đăng kí kinh doanh nên
nhà nước không thể kiểm soát được lúc nào họ thực hiện, lúc nào không, bên cạnh
đó, các hoạt động nằm ngoài danh mục đăng ký kinh doanh này không thường xuyên
nên không thể gộp chung vào các hoạt động nằm trong danh mục đăng kí kinh doanh
để tính thuế được. Do đó việc phân biệt hai nguồn thu này trong Luật thuế TNDN
là hợp lý.
Thứ
hai,
các khoản thu nhập từ kinh doanh phát sinh thường xuyên, nên được tính thuế
theo từng kỳ còn các khoản thu nhập khác phát sinh không thường xuyên nên được
tính thuế theo từng lần. Điều này làm tăng thêm sự cần thiết phải phân biệt thuế
từ hai khoản thu nhập này, để cơ quan có thẩm quyền có thể dễ dàng thực hiện việc
thu thuế, giám sát việc quản lý thu thuế và doanh nghiệp dễ dàng trong việc kê
khai thu nhập chịu thuế của mình.
Thứ
ba,
xét về mặt pháp lí, theo quy định tại Điều 13,14,15 Luật thuế TNDN thì đối
tượng được ưu đãi thuế xuất, ưu đãi về thời gian miễn thuế, giảm thuế là thu nhập từ kinh doanh. Bên cạnh đó, khoản
3 Điều 18 của luật này cũng quy định đối tượng không được áp dụng quy định về
ưu đãi thuế là các đối tượng nằm trong nguồn thu nhập khác của doanh nghiệp.
Như vậy, chỉ thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp mới được
hưởng các ưu đãi thuế TNDN, còn thu nhập khác thì không, khi một hoạt
động kinh doanh nằm trong danh mục đăng ký kinh doanh thì hoạt động đó
sẽ được xem xét hưởng ưu đãi thuế TNDN, còn nếu hoạt động làm tăng vốn
của chủ sở hữu từ các hoạt động ngoài hoạt động được tạo ra từ doanh thu của
doanh nghiệp mà không nằm trong danh mục đăng ký kinh doanh thì sẽ phải
chịu thuế như bình thường và không được hưởng ưu đãi về thuế.
Trong luật thuế TNDN hiện
nay, luật đã nói rõ và quy định riêng cho từng nguồn thu nhập của doanh nghiệp,
mỗi nguồn thu nhập của doanh nghiệp có bản chất, ý nghĩa khác nhau nên đặt ra
yêu cầu phải đánh thuế khác nhau, đồng thời việc phân biệt thuế thu nhập từ
kinh doanh với thu nhập khác giúp việc quản lý, giám sát được dễ dàng hơn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét