Thứ Ba, 30 tháng 1, 2018

Tại sao pháp luật thuế TNDN phân biệt việc đánh thuế đối với thu nhập từ kinh doanh với thu nhập khác?

Trước hết, ta phải hiểu thu nhập là khoản của cải thường được tính thành tiền mà một cá nhân, doanh nghiệp hoặc một nền kinh tế nhận được trong một khoảng thời gian nhất định từ công việc, dịch vụ hoặc hoạt động nào đó.
Đối với doanh nghiệp, mỗi nguồn thu nhập dù đều là thu nhập nhưng có nội dung, vị trí, ý nghĩa khác nhau đối với doanh nghiệp.
Thu nhập từ kinh doanh của doanh nghiệp là tổng giá trị các lợi ích kinh tế mà cơ sở kinh doanh thu được phát sinh từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh thông thường của doanh nghiệp sau khi đã trừ đi chi phí sản xuất. Các hoạt động kinh doanh này nằm trong danh mục đăng kí kinh doanh của doanh nghiệp còn các hoạt động của doanh nghiệp để tạo ra thu nhập khác thì không nằm trong danh mục đăng kí kinh doanh của doanh nghiệp.
Thu nhập khác của doanh nghiệp là khoản thu góp phần làm tăng vốn của chủ sở hữu từ các hoạt động ngoài hoạt động được tạo ra từ doanh thu. Các khoản thu nhập khác không nằm trong danh mục đăng kí kinh doanh của doanh nghiệp, gồm các thu nhập được quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật thuế TNDN năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014.

Kết quả hình ảnh cho thuế thu nhập doanh nghiệp

Qua đó, ta thấy được pháp luật thuế TNDN phân biệt việc đánh thuế thu nhập từ kinh doanh với thu nhập khác vì các lí do sau đây:
Thứ nhất, xét về mặt lí thuyết, thu nhập từ kinh doanh được tính bằng doanh thu trừ chi phí sản xuất, nên việc xác định thu nhập từ kinh doanh là rất dễ dàng, còn các khoản thu nhập khác phát sinh lúc nào thì rất khó để xác đinh, bởi chúng không nằm trong danh mục đăng kí kinh doanh nên nhà nước không thể kiểm soát được lúc nào họ thực hiện, lúc nào không, bên cạnh đó, các hoạt động nằm ngoài danh mục đăng ký kinh doanh này không thường xuyên nên không thể gộp chung vào các hoạt động nằm trong danh mục đăng kí kinh doanh để tính thuế được. Do đó việc phân biệt hai nguồn thu này trong Luật thuế TNDN là hợp lý.
Thứ hai, các khoản thu nhập từ kinh doanh phát sinh thường xuyên, nên được tính thuế theo từng kỳ còn các khoản thu nhập khác phát sinh không thường xuyên nên được tính thuế theo từng lần. Điều này làm tăng thêm sự cần thiết phải phân biệt thuế từ hai khoản thu nhập này, để cơ quan có thẩm quyền có thể dễ dàng thực hiện việc thu thuế, giám sát việc quản lý thu thuế và doanh nghiệp dễ dàng trong việc kê khai thu nhập chịu thuế của mình.
Thứ ba, xét về mặt pháp lí, theo quy định tại Điều 13,14,15 Luật thuế TNDN thì đối tượng được ưu đãi thuế xuất, ưu đãi về thời gian miễn thuế, giảm thuế  là thu nhập từ kinh doanh. Bên cạnh đó, khoản 3 Điều 18 của luật này cũng quy định đối tượng không được áp dụng quy định về ưu đãi thuế là các đối tượng nằm trong nguồn thu nhập khác của doanh nghiệp. Như vậy, chỉ thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp mới được hưởng các ưu đãi thuế TNDN, còn thu nhập khác thì không, khi một hoạt động kinh doanh nằm trong danh mục đăng ký kinh doanh thì hoạt động đó sẽ được xem xét hưởng ưu đãi thuế TNDN, còn nếu hoạt động làm tăng vốn của chủ sở hữu từ các hoạt động ngoài hoạt động được tạo ra từ doanh thu của doanh nghiệp mà không nằm trong danh mục đăng ký kinh doanh thì sẽ phải chịu thuế như bình thường và không được hưởng ưu đãi về thuế.
Trong luật thuế TNDN hiện nay, luật đã nói rõ và quy định riêng cho từng nguồn thu nhập của doanh nghiệp, mỗi nguồn thu nhập của doanh nghiệp có bản chất, ý nghĩa khác nhau nên đặt ra yêu cầu phải đánh thuế khác nhau, đồng thời việc phân biệt thuế thu nhập từ kinh doanh với thu nhập khác giúp việc quản lý, giám sát được dễ dàng hơn.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét