1. Quyền cho thuê doanh nghiệp tư nhân
Cho thuê DN tức là chuyển giao quyền chiếm hữu và sử dụng
toàn bộ DN cho người khác trong một thời gian nhất định để thu một khoản tiền
nhất định gọi là tiền thuê. Ở Việt Nam hiện nay, pháp luật chỉ qui định việc
cho thuê DN với DN TN và Công ty nhà nước mà thôi.
Cho thuê DN là
quyền mà pháp luật trao cho chủ DN TN. Chủ DNTN có quyền tự quyết định việc có cho thuê hay không, lựa chọn ai
để cho thuê và giới hạn phạm vi quyền lợi trách nhiệm đối với hoạt động của DN như thế nào. Bên cạnh đó, việc cho thuê DN không
làm thay đổi CSH của doanh nghiệp. Vì vậy, chủ DN vẫn phải chịu trách nhiệm trước
pháp luật về hoạt động của DN với tư cách là CSH.
Cho thuê DN là cho thuê toàn bộ tài sản trong doanh
nghiệp, bao gồm tài sản hữu hình và vô hình như nhà xưởng, máy móc, nguồn nhân
lực, vốn, kể cả tư cách và những vấn đề liên quan đến thương hiệu của DN đó.
Tuy nhiên, việc thuê này vẫn chỉ dừng lại ở phần “xác” của doanh nghiệp, chứ
không thuê và sử dụng được “hồn” của DN – tức khả năng, uy tín, trí tuệ của chủ
doanh nghiệp.
Để đảm bảo quyền lợi chính đáng của các bên, pháp luật
khuyến khích sự thỏa thuận và quy định chi tiết trong hợp đồng cho thuê DN về trách nhiệm và quyền lợi cụ thể của CSH và
người thuê đối với kết quả hoạt động kinh doanh của DN TN.
Đây là cơ sở để
khi có vấn đề trách nhiệm với bên thứ ba về hoạt động của DN thì chủ DN phải thực
hiện đúng theo chế độ trách nhiệm vô hạn, nhưng sau đó được người thuê đền bù
hoặc gánh vác rủi ro nếu đã có thỏa thuận trong hợp đồng.
Trong trường hợp chủ DN TN cho thuê toàn bộ DN của
mình thì phải gửi văn bản thông kèm theo bản sao hợp đồng cho thuê có công chứng
cho Cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan thuế trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể
từ ngày hợp đồng cho thuê có hiệu lực thi hành. Trong thời hạn cho thuê, chủ DN
TN vẫn phải chịu trách nhiệm trước pháp luật với tư cách là CSH doanh nghiệp.
Quyền và trách nhiệm của CSH và người thuê đối với hoạt động kinh doanh của DN do
CSH doanh nghiệp và bên thuê tự thỏa thuận với nhau và thể hiện trong hợp đồng cho thuê.
Bán DNTN là chuyển nhượng toàn bộ tài sản trong DN chứ
không chuyển nhượng tư cách pháp lý, bởi sau khi hợp đồng mua bán hoàn tất, bên mua phải tiến hành thủ tục đăng ký thay đổi CSH DNTN.
DN TN khi bị bán là bị tách rời khỏi tư cách cá nhân
người CSH, tách rời khỏi khối tài sản đảm bảo trách nhiệm cho hoạt động của nó.
Vì vậy thực chất từ thời điểm bán thì DNTN đó chấm dứt sự tồn tại. Người mua DN
có thể dùng khối tài sản này để mở rộng
hoạt động kinh doanh hiện có của mình, ví dụ như dùng cơ sở vật chất nhân lực
đó lập thành một chi nhánh mới của công ty, hoặc đăng ký kinh doanh dưới hình
thức công ty.
Kể cả trong trường hợp người mua DN là một cá nhân và
tiến hành đăng ký kinh doanh lại dưới hình thức DN TN với tên DN và toàn bộ cơ
sở vật chất nhân lực giữ nguyên như cũ, thì DN vừa được đăng ký kinh doanh này
cũng là một DN TN khác, vì các thuộc tính cơ bản của nó như cá nhân CSH và khối
tài sản riêng của chủ để đảm bảo trách nhiệm cho DN là hoàn toàn khác.
Sau khi bán doanh nghiệp, chủ DNTN vẫn phải chịu trách
nhiệm đối với các nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp phát sinh trước ngày chuyển
giao doanh nghiệp nếu bên bán và bên mua không có thỏa thuận về vấn đề này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét