Thứ Tư, 31 tháng 1, 2018

Một số lưu ý về giấy chứng nhận vệ sinh an toàn thực phẩm

Hiện nay, thực phẩm trên thị trường xuất hiện tràn lan, kể cả những thực phẩm chất lượng hay kém chất lượng. Vấn đề an toàn thực phẩm luôn được người dân quan tâm đến. Do vậy mà những cơ sở sản xuất, kinh doanh các loại thực phẩm hay những đồ dùng trực tiếp tiếp xúc với thực phẩm cần phải có giấy chứng nhận an toàn thực phẩm để có được lòng tin của người tiêu dùng, đồng thời cũng nhằm đảm bảo việc sản xuất, kinh doanh các loại thực phẩm được hợp pháp hóa. Vậy các cơ sở sản xuất kinh doanh có thể làm thủ tục cấp ở cơ quan nào, phải đáp ứng những điều kiện gì để được cấp giấy chứng nhận an toàn vệ sinh thực phẩm? Trong bài viết này, mình xin cung cấp thêm cho các bạn một số điều cần lưu ý về giấy chứng nhận an toàn vệ sinh thực phẩm để các bạn có thể dễ dàng hơn trong việc thực hiện thủ tục cấp.


Kết quả hình ảnh cho mẫu giấy chứng nhận an toàn vệ sinh thực phẩm


Giấy chứng nhận an toàn vệ sinh thực phẩm là loại giấy chứng nhận do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho các cơ sở kinh doanh đủ điều kiện an toàn thực phẩm. Tùy theo từng loại thực phẩm mà các cơ sở kinh doanh, cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận an toàn vệ sinh thực phẩm là khác nhau, cơ quan có thẩm quyền của nhà nước gồm có:

Cục An toàn thực phẩm – Bộ y tế: liên quan đến thực phẩm chức năng, thực phẩm tăng cường vi chất dinh dưỡng
Chi Cục An toàn vệ sinh thực phẩm – Sở y tế: Liên quan đến nước uống đóng chai, đồ đựng thực phẩm, đá thực phẩm, nhà hàng, quán ăn.
Sở Công thương các Tỉnh/thành phố: liên quan đến rượu bia, nước giải khát, bánh mứt kẹo, sữa, sản phẩm từ sữa, sản phẩm từ tinh bột, dầu thực vật
Chi cục Quản lý chất lượng nông Lâm sản và Thủy sản – Sở Nông Nghiệp: liên quan đến các sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy hải sản.

Tuy nhiên không phải cứ kinh doanh các ngành nghề liên quan đến thực phẩm thì đều phải xin cấp loại giấy này, những cơ sở sản xuất kinh doanh nhỏ lẻ hay những người bán hàng rong thì không cần phải xin giấy chứng nhận an toàn vệ sinh thực phẩm.


Để được cấp giấy chứng nhận an toàn vệ sinh thực phẩm, các cơ sở sản xuất, kinh doanh phải đáp ứng các đầy đủ các điều kiện do pháp luật quy định như: cơ sở vật chất, thiết bị, dụng cụ chế biến hay người trực tiếp chế biến thực phẩm...

Về thủ tục cấp giấy chứng nhận an toàn vệ sinh thực phẩm:

Đầu tiên, cần đến cơ quan có thẩm quyền cấp lấy mẫu hồ sơ, điền đầy đủ thông tin và nộp lại cho cơ quan có thẩm quyền.

Sau khi nộp hồ sơ, cơ quan có thẩm quyền sẽ xem xét tính hợp lệ của hồ sơ, yêu cầu sửa đổi bổ sung hồ sơ nếu cần thiết trong vòng 5 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ.

Nếu có yêu cầu sửa đổi, bổ sung hồ sơ, chủ thể nộp hồ sơ phải tiến hành sửa đổi, bổ sung trong thời gian 60 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu, nếu quá thời gian đó thì hồ sơ sẽ bị hủy và phải nộp lại từ đầu.

Nếu thấy hồ sơ hợp lệ, cơ quan có thẩm quyền sẽ tiến hành  thẩm định cơ sở sản xuất, kinh doanh xem có đủ điều kiện về an toàn thực phẩm hay không để xem xét việc cấp giấy chứng nhận an toàn vệ sinh thực phẩm cho cơ sở sản xuất kinh doanh đó

Thủ tục tiến hành thay đổi vốn của chủ doanh nghiệp tư nhân

Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ sở hữu, chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính phát sinh của doanh nghiệp bằng toàn bộ tài sản của mình. Chủ doanh nghiệp tư nhân không phải tiến hành làm thủ tục góp vốn vào doanh nghiệp, tuy nhiên vẫn phải đăng ký vốn với cơ quan đăng ký kinh doanh. Trong quá trình kinh doanh, doanh nghiệp có thể tăng hoặc giảm vốn đầu tư của mình vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc thay đổi vốn đó phải được ghi chép đầy đủ vào sổ sách kế toán của doanh nghiệp đồng thời phải thông báo với cơ quan đăng ký kinh doanh nơi doanh nghiệp đã đăng ký thành lập. Trong bài viết này, mình xin cung cấp thêm cho các bạn thủ tục thay đổi vốn của chủ doanh nghiệp tư nhân để các ban hiểu rõ hơn về thủ tục này.

Kết quả hình ảnh cho vốn của chủ doanh nghiệp tư nhân

Theo quy định của pháp luật, thủ tục thay đổi vốn của chủ doanh nghiệp tư nhân được tiến hành khá đơn giản, theo đó, trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày có thay đổi, chủ doanh nghiệp tư nhân phải gửi văn bản thông báo (theo mẫu quy định tại phụ lục I.15 của thông tư 20/2015/TT-BKHĐT) về việc thay đổi vốn đầu tư vào doanh nghiệp tư nhân cho cơ quan đăng ký kinh doanh. Văn bản thông báo này gồm những nội dung sau:

- Tên doanh nghiệp, mã số doanh nghiệp, mã số thuế. Nếu doanh nghiệp chưa có mã doanh nghiệp và mã số thuế thì có cung cấp số của Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh 
- Mức vốn đầu tư đã đăng ký khi thành lập doanh nghiệp, mức vốn đăng ký thay đổi và thời điểm doanh nghiệp thay đổi vốn đầu tư;
- Họ và tên đầy đủ, chữ ký tươi của chủ doanh nghiệp tư nhân.
Sau khi chuẩn bị song giấy thông báo, doanh nghiệp sẽ tiến hành nộp trực tiếp cho cơ quan đăng ký kinh doanh hoặc gửi qua Cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia theo địa chỉ www.dangkykinhdoanh.gov.vn. Sau khi nhận được thông báo thay đổi vốn của chủ doanh nghiệp tư nhân, cơ quan đăng ký kinh doanh sẽ kiểm tra tính hợp lệ của thông báo, nếu chưa đúng thì sẽ yêu cầu sửa đổi, bổ sung, nếu hợp lệ rồi thì cơ quan đăng ký kinh doanh sẽ cấp cho doanh nghiệp giấy biên nhận cho doanh nghiệp và thay đổi thông tin về vốn đầu tư của doanh nghiệp trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp.
Nếu doanh nghiệp có nhu cầu xin cấp giấy xác nhận về việc thay đổi vốn đầu tư thì cơ quan đăng ký kinh doanh sẽ cấp cho doanh nghiệp.
Thời hạn giải quyết: 3 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ.

Thủ tục tiến hành thay đổi, bổ sung ngành nghề kinh doanh

Hiện nay, doanh nghiệp được phép kinh doanh các ngành nghề mà pháp luật không cấm. Trong quá trình hoạt động, vì một lý do nào đó khiến doanh nghiệp muốn thay đổi hoặc bổ sung thêm ngành nghề kinh doanh để đảm bảo sự phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Vậy thủ tục tiến hành thay đổi, bổ sung ngành nghề kinh doanh được thực hiện như thế nào để doanh nghiệp có thể tiếp tục hoạt động hợp pháp khi kinh doanh các ngành nghề đó? Trong bài viết này, mình xin giới thiệu với các bạn thủ tục tiến hành thay đổi bổ sung ngành nghề kinh doanh để các bạn nắm rõ hơn khi tiến hành làm thủ tục này.

Kết quả hình ảnh cho thay đổi bổ sung ngành nghề kinh doanh khi nào

Luật doanh nghiệp 2014 ra đời đã có những thay đổi về nội dung giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, theo đó nội dung trong giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp không còn có mục ngành nghề kinh doanh nữa, điều này khiến cho việc thực hiện thay đổi, bổ sung ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện một cách đơn giản hơn, sẽ không còn phỉ làm thủ tục thay đổi giấy chứng nhận doanh nghiệp nữa mà thay vào đó, doanh nghiệp chỉ cần thông báo với cơ quan đăng ký kinh doanh về việc thay đổi, bổ sung ngành nghề kinh doanh. Việc thông báo này là bắt buộc, trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày có thay đổi, nếu doanh nghiệp không làm thủ tục thông báo này thì sẽ bj xử phạt hành chính trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư.

Doanh nghiệp muốn thay đổi, bổ sung ngành nghề đăng ký kinh doanh cần gửi một bộ hồ sơ gồm những giấy tờ sau đây cho cơ quan đăng ký kinh doanh:
Văn bản thông báo về việc thay đổi, bổ sung ngành nghề kinh doanh. Nội dung thông báo gồm các nội dung sau đây:

- Tên, mã số doanh nghiệp, mã số thuế hoặc số Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh nếu doanh nghiệp chưa có mã số doanh nghiệp, mã số thuế);
- Ngành, nghề kinh doanh bổ sung hoặc thay đổi;
- Họ, tên, chữ ký của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.

Quyết định và bản sao có chứng thực biên bản họp về việc thay đổi bổ sung ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp (đối với các loại hình doanh nghiệp là Công ty TNHH, công ty cổ phần và công ty hợp danh).

Sau khi chuẩn bị song những giấy tờ trên, doanh nghiệp sẽ tiến hành gửi hồ sơ qua mạng, sau khi nhận được thông báo hồ sơ hợp lệ thì sẽ mang hồ sơ bản cứng đến nộp tại cơ quan đăng ký kinh doanh.
Khi nhận được hồ sơ, Phòng Đăng ký kinh doanh sẽ cấp cho doanh nghiệp Giấy biên nhận, kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ, bổ sung, thay đổi thông tin về ngành, nghề kinh doanh của doanh nghiệp trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp có nhu cầu, Phòng Đăng ký kinh doanh cấp Giấy xác nhận về việc thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp cho doanh nghiệp.
Trường hợp hồ sơ không hợp lệ, doanh nghiệp phải tiến hành sửa đổi, bổ sung hồ sơ.

Sau khi nhận được giấy biên nhận, xem ngày hẹn trên giấy biên nhận rồi đến nhận kết quả.

Trên đây là tủ tục tiến hành thay đổi nội dung ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp, hi vọng thông tin này sẽ hữu ích đối với các bạn.

Thuế thu nhập doanh nghiệp có những đặc trưng gì?

Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) là loại thuế trực thu đánh vào phần thu nhập của tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có thu nhập chịu thế sau khi đã trừ đi các chi phí liên quan đến thu nhập đó, nhằm đảm bảo sự đóng góp công bằng, hợp lý giữa các doanh nghiệp, tổ chức sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có thu nhập góp phần thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển và tăng thu cho NSNN.
Kết quả hình ảnh cho thuế thu nhập doanh nghiệp

 Thuế thu nhập doanh nghiệp có các đặc trưng sau:

Bên cạnh các đặc điểm chung của thuế như: là khoản thu nộp bắt buộc vào ngân sách, gắn với yếu tố quyền lực, có tính cưỡng chế và pháp lý cao, không mang tính đối giá, không hoàn trả trực tiếp, thuế TNDN còn có một số đặc điểm riêng tạo nên đặc trưng của thuế TNDN, cụ thể như sau:

Thứ nhất, chủ thể nộp thuế là là các tổ chức kinh doanh có thu nhập chịu thuế.
Đây là đặc điểm khác biệt để phân biệt thuế TNDN với thuế TNCN. Luật thuế thu nhập cá nhân có đối tượng nộp thuế là tất cả các cá nhân trong xã hội khi đáp ứng các điều kiện mà luật thuế thu nhập cá nhân quy định – đó là toàn bộ những người có thu nhập bao gồm tất cả cá nhân cư trú hoặc không cư trú có thu nhập theo mức độ quy định của pháp luật thuế thu nhập cá nhân.
Chủ thể nộp thuế TNDN là các tổ chức sản xuất, kinh doanh hàng hóa dịch vụ có thu nhập chịu thuế phát sinh theo quy định của pháp luật thuế TNDN. Do đó về nguyên tắc thì bất kỳ tổ chức nào khi thỏa mãn hành vi kinh doanh và có thu nhập phát sinh thì đều là đối tượng nộp thuế TNDN. Tuy nhiên, để thực hiện chính sách khuyến khích đã ngộ với một số đối tượng hoạt động trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, một số lĩnh vực sản xuất kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn và thường tạo ra thu nhập không cao, luật thuế TNDN có quy định các trường hợp ngoại lệ.

Thứ hai, thuế TNDN có đối tượng điều chỉnh là thuế đánh vào thu nhập, cụ thể là khoản thu nhập chịu thuế của các tổ chức hoạt động, sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ và thu nhập khác của đối tượng nộp thuế kể cả thu nhập có được từ hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ ở nước ngoài. Thu nhập ở đây phải là thu nhập chịu thuế theo quy định pháp luật thuế TNDN. Tức là khoản thu nhập thực tế đã phát sinh trong kỳ tính thuế từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc sở hữu của tổ chức sản xuất kinh doanh. Theo đó, thu nhập trong kỳ tính thuế được tính tổng các giá trị lợi ích mà tổ chức kinh doanh thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh thông thường của doanh nghiệp góp phần làm tăng vốn doanh thu trừ đi các chi phí hợp lý trong kỳ tính thuế; cộng các khoản thu góp phần làm tăng vốn doanh thu từ các hoạt động ngoài các hoạt động tạo ra doanh thu như: chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng bất động sản; thu nhập từ quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản; thu nhập từ cho thuê, chuyển nhượng, thanh lí tài sản;…
Như vậy, mức vận động của NSNN đối với loại thuế này phụ thuộc phần lớn vào hiệu quả kinh doanh cũng như quy mô lợi nhuận của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào có thu nhập chịu thuế càng cao sẽ phải nộp thuế càng nhiều và ngược lại, các doanh nghiệp nào có thu nhập chịu thuế thấp hoặc gặp khó khăn về tài chính sẽ chỉ phải nộp thuế ít, thậm chí được giảm, miễn thuế.

Thứ ba, thuế TNDN là loại thuế trực thu, tức là người nộp thuế đồng thời cũng là người chịu thuế, không có sự chuyển giao nghĩa vụ từ người nộp thuế sang người chịu thuế. Ngoài mục tiêu tạo nguồn thu cho NSNN, nó còn có mục tiêu điều tiết kinh tế, điều hòa thu nhập xã hội nên thường gắn liền với chính sách kinh tế xã hội của nhà nước. Bởi vậy, pháp luật thuế thu nhập ở các nước thường có những quy định về chế độ ưu đãi, miễn, giảm thuế để đảm bảo chức năng khuyến khích của thuế thu nhập hoặc thực hiện việc áp dụng đánh thuế theo biểu thuế lũy tiến từng phần đối với một số khoản thu nhập chịu thuế để thực hiện các mục tiêu điều tiết.

Thứ tư, thuế TNDN nói riêng và thuế thu nhập nói chung là loại thuế phức tạp. Có tính ổn định không cao, việc quản lý thuế, thu thuế tương đối khó khăn, chi phí quản lý thường lớn hơn so với các loại thuế khác. Trong phần xác định thu nhập chịu thuế, phải xác định được các khoản khấu trừ hợp lý để tiến hành khấu trừ khi tính thuế nhằm đảm bảo mục tiêu công bằng và khuyến khích đối tượng nộp thuế.
Thuế TNDN đánh trực tiếp vào thu nhập của tổ chức sản xuất, kinh doanh, và làm giảm ngay số thu nhập có được của doanh nghiệp nên loại thuế này gây cảm giác mất mát cho người nộp thuế, và vì vậy, dễ gây phản ứng từ đối tượng nộp thuế, dẫn đến tình trạng trốn thuế. Mặt khác, khi tính thuế TNDN, việc xác định các khoản thu nhập chịu thuế, nguồn gốc khoản thu, địa điểm phát sinh thu nhập, yếu tố cư trú của tổ chức, các khoản chi phí hợp lý và không hợp lý mà việc khấu trừ rất phức tạp, rất khó kiểm soát. Vì vậy, cơ quan quản lý thuế phải đầu tư rất nhiều cả về tài lực, vật lực và nhân lực cho công tác quản lý lĩnh vực thuế này. Việc quản lý rất khó khăn, đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ thuế đông đảo và có trình độ chuyên môn, quản lý kinh tế cao, kèm theo việc áp dụng các phương tiện quản lý có kỹ thuật hiện đại với một hệ thống pháp luật đầy đủ, khả thi.
Nếu so với các loại thuế gián thu, thì thuế TNDN với tính chất là một loại thuế trực thu có phần thiếu ổn định hơn. Thật vậy, các loại thuế gián thu đánh vào tiêu dùng, nên ngay cả khi nền kinh tế đi xuống, hoạt động mua sắm, chi tiêu vẫn diễn ra, do vậy nhà nước vẫn thu được thuế mà tổng số thu không giảm sút đáng kể. Trong khi đó, thuế TNDN đánh vào thu nhập nên thường bị biến động. Nếu kinh tế phát triển tốt, thu nhập sẽ khá hơn và từ đó thuế thu được sẽ tăng. Nhưng ngược lại, sự suy giảm của nền kinh tế có thể làm giảm số lượng thu nhập nên số thuế thu ược có thể giảm đi rõ rệt.

Thứ năm, quan hệ thu – nộp thuế TNDN chịu sự điều chỉnh của pháp luật quốc gia và luật quốc tế. Thuế TNDN thường là đối tượng điều chỉnh bởi hiệp định tránh đánh thuế hai lần. Một số nước có ưu đãi thuế bằng cách miễn giảm thuế đối với một số thu nhập để khuyến khích đầu tư nước ngoài trong việc phát triển kinh tế. Tuy nhiên, việc chuyển lợi nhuận từ một nước, nơi phát sinh thu nhập về nước nơi người nộp thuế thuộc đối tượng cư trú đã loại trừ các lợi ích của việc ưu đãi thuế, có nghĩa là số thuế được miễn giảm ở nước phát sinh thu nhập đã bị thu nhập đã bị thu đầy đủ ở nước nơi người nộp thuế thuộc đối tượng cư trú. Điều này làm nản lòng các nhà đầu tư ở một nước mà đã cố gắng có chính sách khuyến khích thông qua pháp luật. Do đó, việc kí kết các hiệp định tránh đánh thuế hai lần giữa các quốc gia là điều vô cùng cần thiết.

Sự khác nhau giữa nhãn hiệu và chỉ dẫn đia lý

Nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý đều là những chỉ dẫn thương mại được quy định trong Luật sở hữu trí tuệ 2009.  Chúng đều là các dấu hiệu từ ngữ hoặc hình ảnh biểu tượng để người dùng phân biệt và thuộc các đối tượng phải đăng ký để xác lập quyền. Tuy nhiên, giữa chúng lại có rất nhiều điểm khác biệt về mục đích sử dụng cũng như tính chất của từng cái. Trong bài viết này, mình xin cung cấp thêm cho các bạn thông tin về sự khác nhau giữa nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý để các bạn có thể dễ dàng phân biệt được chúng.

Kết quả hình ảnh cho nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý

Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của cá nhân, tổ chức này với hàng hóa, dịch vụ của cá nhân, tổ chức khác.

Chỉ dẫn thương mại là dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể.

Nhãn hiệu và chỉ dẫn thương mại có một số điểm khác nhau như sau: 

Tiêu chí phân biệt
Nhãn hiệu
Chỉ dẫn địa lý
Chức năng
Nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân này với hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân khác
Chỉ dẫn địa lý dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ một khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể.

Đối tượng
Sử dụng cho cả hàng hóa, dịch vụ
Sử dụng cho sản phẩm, hàng hóa, không sử dụng cho dịch vụ
Điều kiện bảo hộ
Phải là những dấu hiệu nhìn thấy được: dấu hiệu chữ có thể là chữ cái, chữ số, từ ngữ có nghĩa hoặc không có nghĩa; dấu hiệu hình có thể là hình vẽ, ảnh chụp, hình khối; dấu hiệu kết hợp cả phần chữ và phần hình. Những dấu hiệu trên được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc.
Phải có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác.
Sản phẩm có nguồn gốc địa lý tương ứng với chỉ dẫn địa lý.
Sản phẩm có danh tiếng, chất lượng hoặc đặc tính chủ yếu do điều kiện địa lý của khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hoặc nước tương ứng với chỉ dẫn địa lý đó quyết định.

Đối tượng không được bảo hộ
Các dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn.

Tên gọi chung của hàng hóa được sử dụng rộng rãi; hàng hóa nước ngoài; trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu đang được bảo hộ; chỉ dẫn địa lý gây sai lệch đối với nguồn gốc thực của sản phẩm.

Chủ thể đi đăng ký
Tổ chức, cá nhân bất kỳ
Nhà nước
Chủ sở hữu
Tổ chức, cá nhân được cơ quan có thẩm quyền cấp văn bằng
Nhà nước
Chủ thể có quyền sử dụng
Chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc cá nhân, tổ chức được chủ sở hữu cho phép sử dụng
Nhà nước trao quyền cho tổ chức, cá nhân tiến hành sản xuất sản phẩm có nguồn gốc xuất xứ từ khu vực địa lý mang chỉ dẫn địa lý với điều kiện phải đáp ứng các tiêu chuẩn về tính chất, chất lượng đặc thù của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý.

Thời hạn bảo hộ
10 năm kể từ ngày nộp đơn, có thể gia hạn nhiều lần liên tiếp, mỗi lần 10 năm
Vô thời hạn
Chấm dứt hiệu lực văn bằng bảo hộ
Chủ văn bằng bảo hộ không còn tồn tại hoặc chủ giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu không còn hoạt động kinh doanh mà không có người thừa kế hợp pháp; nhãn hiệu không được sử dụng trong năm năm liên tục trước ngày có yêu cầu chấm dứt hiệu lực mà không có lý do chính đáng.

Chấm dứt khi các điều kiện địa lý tạo nên danh tiếng, chất lượng, đặc tính của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý bị thay đổi làm cho danh tiếng, chất lượng, đặc tính của sản phẩm bị mất đi

Chuyển giao quyền sử dụng
Được phép chuyển nhượng quyền sở hữu và chuyển giao quyền sử dụng
Không được phép chuyển nhượng quyền sở hữu và chuyển giao quyền sử dụng

Thứ Ba, 30 tháng 1, 2018

Tại sao pháp luật thuế TNDN phân biệt việc đánh thuế đối với thu nhập từ kinh doanh với thu nhập khác?

Trước hết, ta phải hiểu thu nhập là khoản của cải thường được tính thành tiền mà một cá nhân, doanh nghiệp hoặc một nền kinh tế nhận được trong một khoảng thời gian nhất định từ công việc, dịch vụ hoặc hoạt động nào đó.
Đối với doanh nghiệp, mỗi nguồn thu nhập dù đều là thu nhập nhưng có nội dung, vị trí, ý nghĩa khác nhau đối với doanh nghiệp.
Thu nhập từ kinh doanh của doanh nghiệp là tổng giá trị các lợi ích kinh tế mà cơ sở kinh doanh thu được phát sinh từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh thông thường của doanh nghiệp sau khi đã trừ đi chi phí sản xuất. Các hoạt động kinh doanh này nằm trong danh mục đăng kí kinh doanh của doanh nghiệp còn các hoạt động của doanh nghiệp để tạo ra thu nhập khác thì không nằm trong danh mục đăng kí kinh doanh của doanh nghiệp.
Thu nhập khác của doanh nghiệp là khoản thu góp phần làm tăng vốn của chủ sở hữu từ các hoạt động ngoài hoạt động được tạo ra từ doanh thu. Các khoản thu nhập khác không nằm trong danh mục đăng kí kinh doanh của doanh nghiệp, gồm các thu nhập được quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật thuế TNDN năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014.

Kết quả hình ảnh cho thuế thu nhập doanh nghiệp

Qua đó, ta thấy được pháp luật thuế TNDN phân biệt việc đánh thuế thu nhập từ kinh doanh với thu nhập khác vì các lí do sau đây:
Thứ nhất, xét về mặt lí thuyết, thu nhập từ kinh doanh được tính bằng doanh thu trừ chi phí sản xuất, nên việc xác định thu nhập từ kinh doanh là rất dễ dàng, còn các khoản thu nhập khác phát sinh lúc nào thì rất khó để xác đinh, bởi chúng không nằm trong danh mục đăng kí kinh doanh nên nhà nước không thể kiểm soát được lúc nào họ thực hiện, lúc nào không, bên cạnh đó, các hoạt động nằm ngoài danh mục đăng ký kinh doanh này không thường xuyên nên không thể gộp chung vào các hoạt động nằm trong danh mục đăng kí kinh doanh để tính thuế được. Do đó việc phân biệt hai nguồn thu này trong Luật thuế TNDN là hợp lý.
Thứ hai, các khoản thu nhập từ kinh doanh phát sinh thường xuyên, nên được tính thuế theo từng kỳ còn các khoản thu nhập khác phát sinh không thường xuyên nên được tính thuế theo từng lần. Điều này làm tăng thêm sự cần thiết phải phân biệt thuế từ hai khoản thu nhập này, để cơ quan có thẩm quyền có thể dễ dàng thực hiện việc thu thuế, giám sát việc quản lý thu thuế và doanh nghiệp dễ dàng trong việc kê khai thu nhập chịu thuế của mình.
Thứ ba, xét về mặt pháp lí, theo quy định tại Điều 13,14,15 Luật thuế TNDN thì đối tượng được ưu đãi thuế xuất, ưu đãi về thời gian miễn thuế, giảm thuế  là thu nhập từ kinh doanh. Bên cạnh đó, khoản 3 Điều 18 của luật này cũng quy định đối tượng không được áp dụng quy định về ưu đãi thuế là các đối tượng nằm trong nguồn thu nhập khác của doanh nghiệp. Như vậy, chỉ thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp mới được hưởng các ưu đãi thuế TNDN, còn thu nhập khác thì không, khi một hoạt động kinh doanh nằm trong danh mục đăng ký kinh doanh thì hoạt động đó sẽ được xem xét hưởng ưu đãi thuế TNDN, còn nếu hoạt động làm tăng vốn của chủ sở hữu từ các hoạt động ngoài hoạt động được tạo ra từ doanh thu của doanh nghiệp mà không nằm trong danh mục đăng ký kinh doanh thì sẽ phải chịu thuế như bình thường và không được hưởng ưu đãi về thuế.
Trong luật thuế TNDN hiện nay, luật đã nói rõ và quy định riêng cho từng nguồn thu nhập của doanh nghiệp, mỗi nguồn thu nhập của doanh nghiệp có bản chất, ý nghĩa khác nhau nên đặt ra yêu cầu phải đánh thuế khác nhau, đồng thời việc phân biệt thuế thu nhập từ kinh doanh với thu nhập khác giúp việc quản lý, giám sát được dễ dàng hơn.


Phân biệt nhãn hiệu và tên thương mại

Nhãn hiệu và tên thương mại đều là hai đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp, hai khái niệm này xuất hiện hàng ngày, một cái là để phân biệt sản phẩm hàng hóa dịch vụ còn một cái là để phân biệt chủ thể kinh doanh này với chủ thể kinh doanh khác. Tuy nhiên nhiều người vẫn còn nhầm lẫn giữa hai khái niệm này bởi chưa hiểu rõ bản chất của chúng. Trong bài viết này, mình xin cung cấp thêm cho các bạn thông tin về sự giống và khác nhau giữa nhãn hiệu và tên thương mại để các bạn có một cái nhìn chi tiết hơn về chúng.

Kết quả hình ảnh cho nhãn hiệu và tên thương mại

1. Như thế nào được gọi là nhãn hiệu, như thế nào được gọi là tên thương mại

Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa dịch vụ này với hàng hóa dịch vụ khác của các tổ chức, cá nhân khác nhau.

Nhãn hiệu được sử dụng trong các trường hợp:
- Gắn nhãn hiệu được bảo hộ lên hàng hoá, bao bì hàng hoá, phương tiện kinh doanh, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch trong hoạt động kinh doanh.
-Kinh doanh, quảng cáo hàng hoá mang nhãn hiệu được bảo hộ.
- Nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu đã được đăng ký bảo hộ.

Tên thương mại là tên gọi của tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động kinh doanh, dùng để phân biệt chủ thể kinh doanh này với chủ thể kinh doanh khác trong cùng một lĩnh vực và khu vực kinh doanh.

Sử dụng tên thương mại bằng cách dùng tên thương mại để xưng danh trong các hoạt động kinh doanh, thể hiện tên thương mại trong các giấy tờ giao dịch, biển hiệu, sản phẩm, hàng hoá, bao bì hàng hoá và phương tiện cung cấp dịch vụ, quảng cáo.

2. So sánh nhãn hiệu và tên thương mại

Điểm giống nhau: Nhãn hiệu và tên thương mại có những điểm giống nhau sau đây

Thứ nhất, cả nhãn hiệu và tên thương mại đều là các chỉ dẫn thương mại xuất hiện trên hàng hóa, giúp người tiêu dùng phân biệt, cung cấp thông tin về xuất xứ chủ thể kinh doanh, khả năng phân biệt là có thể được bảo hộ. Theo đó, chỉ dẫn thương mại là các dấu hiệu, thông tin nhằm hướng dẫn thương mại hàng hoá, dịch vụ, bao gồm nhãn hiệu, tên thương mại, biểu tượng kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng bao bì của hàng hoá, nhãn hàng hoá.
Thứ hai, nhãn hiệu và tên thương mại đều là các dấu hiệu nhìn thấy được tức là bằng thị giác mà con người nhận thấy được sự khác nhau giữa các hàng hóa, dịch vụ và giữa các chủ thể kinh doanh.
Thứ ba, nhãn hiệu và tên thương mại phải có khả năng phân biệt.

Điểm khác nhau:

Tiêu chí
Nhãn hiệu
Tên thương mại
Khái niệm
Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các  tổ chức, cá nhân khác nhau
Ví dụ: Aquafina, Fanta
Tên thương mại là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh
Ví dụ: Công ty cổ phần Sao Thái Dương, Công ty TNHH HMTĐ PLYWOOD
Cơ sở pháp lý
Khoản 16 điều 4 Luật SHTT 2005 sửa đổi bổ sung 2009

Khoản 21 điều 4 Luật SHTT 2005 sửa đổi bổ sung 2009

Chức năng
Là để phân biệt hàng hóa, dịch vụ. Ngoài ra còn có chức năng quảng cáo.  

Là dấu hiệu để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh.
Dấu hiệu
Có thể là những từ ngữ hình ảnh, biểu tượng, là sự kết hợp giữa ngôn ngữ và hình ảnh.
Chỉ là dấu hiệu từ ngữ, không bảo hộ màu sắc, hình ảnh.

Điều kiện bảo hộ
Đáp ứng các điều kiện quy định tại điều 72, 74 và không thuộc các đối quy định tại điều 73 Luật sở hữu trí tuệ.
(ví dụ: nhìn thấy được và có khả năng phân biệt,…)

Đáp ứng các điều kiện tại điều 76, 78, không thuộc các đối tượng quy định tại điều 77, và tên thương mại phải được sử dụng hợp pháp trên thực tế.

Số lượng mà chủ sở hữu có thể có
Một chủ thể kinh doanh có thể đăng ký sở hữu nhiều nhãn hiệu
Một chủ thể kinh doanh chỉ có thể có một tên thương mại
Phạm vi
bảo hộ
Bảo hộ trên phạm vi toàn quốc
Phạm vi bảo hộ phụ thuộc  vào khu vực kinh doanh
Thời hạn bảo hộ
Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu có hiệu lực từ ngày cấp đến hết mười năm kể từ ngày nộp đơn. Sau đó, có thể gia hạn nhiều lần liên tiếp, mỗi lần mười năm.

Bảo hộ không xác định thời hạn. Khi nào chủ thể kinh doanh còn sử dụng tên thương mại đó trong hoạt động kinh doanh thì tên thương mại còn được bảo hộ.

Căn cứ xác lập quyền sở hữu công nghiệp
Theo quy định tại điểm a Khoản 3 điều 6 Luật SHTT 2005 sửa đổi bổ sung 2009:
Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu được xác lập trên cơ sở đăng ký và được cấp bằng bảo hộ.
(Nhãn hiệu nổi tiếng được bảo hộ tự động, không phải đi đăng ký, tuy nhiên một nhãn hiệu phải đáp ứng các tiêu chí ở Điều 75 mới được công nhận là nhãn hiệu nổi tiếng).
Theo quy định tại điểm b Khoản 3 điều 6 Luật SHTT 2005 sửa đổi bổ sung 2009:
Quyền sở hữu công nghiệp đối với Tên thương mại được xác lập trên cơ sở sử dụng hợp pháp tên thương mại đó mà không cần thực hiện thủ tục đăng ký.
Chủ thể đi đăng ký
Các chủ thể được quy định tại Điều 87 Luật SHTT 2009 và các tổ chức cá nhân có chức năng kiểm soát Nhãn hiệu chứng nhận.

Không có người đi đăng ký do không phải đăng ký
Chuyển giao đối tượng quyền sở hữu công nghiệp
Nhãn hiệu có thể là đối tượng của hợp đồng chuyển nhượng  quyền sở hữu  công nghiệp và quyền sử dụng (trừ nhãn hiệu tập thể thì không được chuyển giao cho tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của chủ sở hữu nhãn hiệu tập thể đó).
- Không bắt buộc chuyển giao toàn bộ cơ sở sản xuất, kinh doanh.
Chỉ có thể là đối tượng của hợp đồng chuyển nhượng với điều kiện là việc chuyển nhượng tên thương mại kèm theo việc chuyển nhượng toàn bộ cơ sở kinh doanh và hoạt động kinh doanh
Chủ sở hữu
Thuộc sở hữu của cá nhân hoặc tổ chức được cơ quan có thẩm quyền cấp GCN đăng ký nhãn hiệu
Thuộc sở hữu của cá nhân, tổ chức sử dụng tên thương mại đó.
Căn cứ giải quyết khi xảy ra tranh chấp
Khi xảy ra tranh chấp, chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp có quyền sử dụng văn bằng bảo hộ làm căn cứ chứng minh quyền của mình
Khi xảy ra tranh chấp quyền đối với tên thương mại, chủ thể có tên thương mại phải chứng minh quyền của mình bằng các chứng cứ thể hiện thời gian, lãnh thổ, lĩnh vực trong đó tên thương mại đã được chủ thể đó sử dụng

Phân biệt khởi kiện và kháng cáo vụ án hành chính

Từ trước đến nay, trong quá trình thực hiện quản lý hành chính nhà nước khó có thể tránh khỏi sự xung đột hay tranh chấp về lợi ích, quan điểm áp dụng pháp luật giữa chủ thể quản lý hành chính nhà nước và đối tượng quản lý hành chính nhà nước. Những xung đột, tranh chấp này chủ yếu xuất phát từ việc chủ thể quản lý hành chính nhà nước đơn phương áp đặt ý chí của mình gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng quản lý hành chính nhà nước. Khi quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm hại thì pháp luật trao cho họ quyền để bảo vệ mình thông qua việc khởi kiện và sâu hơn nữa là kháng cáo các quyết định về việc giải quyết các tranh chấp đó. Vậy khởi kiện và kháng cáo có gì khác nhau, chúng có ý nghĩa gì? Trong bài viết này, mình xin cung cấp thêm cho các bạn sự khác nhau giữa khởi kiện và kháng cáo để các bạn có thể biết khi nào thì được gọi khởi kiện, khi nào thì sẽ được gọi là kháng cáo.

Kết quả hình ảnh cho khởi kiện và kháng cáo vụ án hành chính

1.1. Tính chất của khởi kiện và kháng cáo

Khởi kiện thực chất là việc yêu cầu tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp hành chính theo thủ tục TTHC để bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm bởi việc thực thi quyền hành pháp còn kháng cáo là việc yêu cầu tòa án cấp trên trực tiếp xem xét lại bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật theo thủ tục phúc thẩm nhằm tạo điều kiện để các chủ thể có thẩm quyền khắc phục, sửa chữa các sai lầm, thiếu sót của bản án, quyết định của tòa án cấp sơ thẩm, bảo vệ quyền và lợi ích của cá nhân, cơ quan, tổ chức và nhà nước cũng như duy trì trật tự pháp luật trong quản lý nhà nước.

1.2. Thời điểm tiến hành khởi kiện và kháng cáo

Khởi kiện được tiến hành vào giai đoạn trước khi thụ lý và giải quyết vụ án, là cơ sở làm phát sinh trách nhiệm xem xét thụ lý giải quyết VAHC của Tòa án có thẩm quyền. Khi cá nhân, cơ quan, tổ chức có căn cứ cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình trực tiếp bị xâm phạm bởi quyết đinh hành chính, hành vi hành chính, thì họ sẽ nộp đơn khởi kiện cho tòa án, và vụ việc họ khởi kiện này chưa được giải quyết bằng bản án hoặc quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Đối với kháng cáo thì được tiến hành vào giai đoạn tố tụng hành chính, khi Tòa án cấp sơ thẩm có bản án, quyết định đình chỉ, quyết định tạm đình chỉ vụ án thì những bản án này chưa có hiệu lực luôn mà sẽ có thời hạn kháng cáo theo Điều 206 Luật TTHC. Việc kháng cáo theo đúng thủ tục do pháp luật quy định sẽ làm phát sinh thủ tục phúc thẩm.
Như vậy khởi kiện được thực hiện khi vụ việc đó chưa được giải quyết bằng một bản án, quyết định của Tòa án còn kháng cáo được thực hiện khi vụ việc đó đã được khởi kiện và được tòa án thụ lý, giải quyết bằng các quyết định, bản án để giải quyết vụ việc đó.

1.3. Đối tượng của khởi kiện và đối tượng của kháng cáo

Đối tượng của khởi kiện trong TTHC được quy định tại khoản 1,2,3,4,5 Điều 3, Điều 30,31,32 Luật TTHC. Theo đó thì đối tượng của khởi kiện trong TTHC bao gồm:
- Quyết định hành chính, hành vi hành chính trừ những quyết định hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước theo quy định của pháp luật; quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan tổ chức; quyết định, hành vi của tòa án trong việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, xử lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng.
- Quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữ chức vụ từ Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống.
- Quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh.
- Danh sách cử tri.
Mặt khác, đối tượng của kháng cáo có phần khác so với đối tượng của khởi kiện.Nếu đối tượng của khởi kiện là các quyết định hành chính, hành vi hành chính của chủ thể có thẩm quyền trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước thì đối tượng của kháng cáo lại là bản án, quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ của tòa án cấp sơ thẩm. Bên cạnh đó, theo Điều 202 Luật TTHC thì Bản án, quyết định đình chỉ vụ án giải quyết khiếu kiện về danh sách cử tri có hiệu lực thi hành ngay nên đương sự không có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát không có quyền kháng nghị.
Như vây, theo như phân tích trên thì đối tượng của khởi kiện và kháng cáo là hoàn toàn khác nhau. Nếu đối tượng của khởi kiện là những vụ việc chưa từng được Tòa án có thẩm quyền thụ lý và giải quyết thì đối tượng của kháng cáo lại là những vụ việc đã được tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định nhưng trong thời hạn kháng cáo, chủ thể có quyền kháng cáo làm đơn kháng cáo yêu cầu tòa án cấp phúc thẩm xem xét giải quyết lại, là cơ sở để phúc thẩm VAHC.

1.4. Chủ thể có quyền khởi kiện và chủ thể có quyền kháng cáo

Quyền khởi kiện được quy định tại Điều 105 Luật TTHC. Theo đó, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính của chủ thể quản lý hành chính nhà nước thì có quyền khởi kiện ra tòa án để bảo về quyền, lợi ích chính đáng của mình.
Người có quyền kháng cáo được quy định tại Điều 204 Luật TTHC: “Đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự có quyền kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm”. Theo như quy định này thì chủ thể có quyền kháng cáo là đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự.
Như vậy, ta có thể thấy sự khác nhau giữa chủ thể có quyền kháng cáo và chủ thể có quyền khởi kiện. Chủ thể có quyền khởi kiện là đối tượng quản lý hành chính có quyền và lợi ích bị xâm phạm bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính của chủ thể quản lý hành chính nhà nước, họ có thể khởi kiện thông qua người đại diện theo pháp luật của mình. Còn chủ thể có quyền kháng cáo là đương sự và người đại diện của đương sự, đương sự ở đây gồm người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, và người đại diện thì gồm có cả người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền. Như vậy ta có thể thấy chủ thể có quyền kháng cáo rộng hơn chủ thể có quyền khởi kiện, điều đó đồng nghĩa với việc việc kháng cáo một bản án, quyết định chưa có hiệu lực là dễ dàng hơn so với việc khởi kiện một VAHC.

1.5. Thời hiệu khởi kiện và thời hạn kháng cáo

Thời hiệu khởi kiện:
Thời hiệu khởi kiện được quy định tại Điều 116 Luật TTHC. Theo đó, thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà cơ quan, tổ chức, cá nhân được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án hành chính bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện.
Thời hiệu khởi kiện đối với từng trường hợp được quy định như sau:
-         01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc;
-         30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh;
-         Từ ngày nhận được thông báo kết quả giải quyết khiếu nại của cơ quan lập danh sách cử tri hoặc kết thúc thời hạn giải quyết khiếu nại mà không nhận được thông báo kết quả giải quyết khiếu nại của cơ quan lập danh sách cử tri đến trước ngày bầu cử 05 ngày.
Trường hợp đương sự khiếu nại theo đúng quy định của pháp luật đến cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì thời hiệu khởi kiện được quy định như sau:
-         01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc quyết định giải quyết khiếu nại lần hai;
-         01 năm kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật mà cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền không giải quyết và không có văn bản trả lời cho người khiếu nại.
Thời hạn kháng cáo:
Đối với kháng cáo thì thời hạn kháng cáo được quy định tại điều 206 Luật TTHC, theo đó:
-         Thời hạn kháng cáo đối với bản án hành chính sơ thẩm là 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết. Đối với trường hợp đương sự đã tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt khi Tòa án tuyên án mà không có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo kể từ ngày tuyên án.
-         Thời hạn kháng cáo đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày kể từ ngày người có quyền kháng cáo nhận được quyết định hoặc kể từ ngày quyết định được niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi họ cư trú hoặc nơi có trụ sở trong trường hợp người có quyền kháng cáo là cơ quan, tổ chức.
Như vậy, tuy khởi kiện và kháng cáo đều có thời hiệu phụ thuộc vào đối tượng của vụ việc, nhưng ta có thể thấy rằng thời hạn khởi kiện dài hơn so với thời hạn kháng cáo.

1.6. Hình thức và nội dung khởi kiện và kháng cáo

·        Hình thức
Theo quy định của pháp luật, khởi kiện và kháng cáo đều được thực hiện bằng văn bản, cụ thể đó là đơn khởi kiện và đơn kháng cáo. Người khởi kiện phải làm đơn khởi kiện và nộp đến Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc, người có quyền kháng cáo thì sẽ làm đơn kháng cáo gửi đến Tòa án cấp sơ thẩm đã ra quyết đinh, bản án bị kháng cáo.
·        Nội dung
Đơn khởi kiện phải có đầy đủ các nội dung chính theo Điều 118 Luật TTHC. Đơn kháng cáo phải có đầy đủ nội dung theo quy định tại Điều 205 Luật TTHC. Do khởi kiện là yêu cầu tòa án giải quyết vụ việc nên trong đơn khởi kiện, người khởi kiện phải đưa ra được lý dó thuyết phục, phải chứng minh được rằng các quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm thì Tòa án mới xem xét thụ lý vụ án nếu không sẽ rất dễ bị Tòa án trả lại đơn. Mặt khác, nội dung trong đơn kháng cáo, người có quyền kháng cáo chỉ cần nêu lên lí do kháng cáo rằng không đồng ý với bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm thì bản án, quyết định đó sẽ được xem xét lại, chứ không cần lý do phải chặt chẽ, mang tính thuyết phục cao như lí do khởi kiện.

1.7. Ý nghĩa pháp lý


Khởi kiện là cơ sở để Tòa án có thể xem xét, giải quyết VAHC, làm phát sinh trách nhiệm xem xét thụ lý và giải quyết của Tòa án có thẩm quyền, khắc phục tình trạng độc quyền trong việc giải quyết các khiếu kiện hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, góp phần đề cao trách nhiệm công vụ của các chủ thể quản lý hành chính nhà nước trong việc ban hành các quyết định hành chính, thực hiện hành vi hành chính và giải quyết các khiếu nại hành chính. Còn kháng cáo sẽ làm phát sinh thủ tục phúc thẩm, nghĩa là khi có kháng cáo, tòa án cấp phúc thẩm phải xem xét toàn bộ hoặc một phần bản án, quyết định có liên quan đến nội dung kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm. việc xem xét này tạo điều kiện cho cơ quan có thẩm quyền khắc phục, sửa chữa các sai lầm, thiếu sót của bản án, quyết định của tòa án cấp sơ thẩm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức cũng như duy trì trật tự pháp luật trong quản lý nhà nước.